Tại Việt Nam, việc sử dụng loại nhựa đường có độ kim
lún 60/70 đã trở nên khá quen thuộc trong quá trình xây mới, nâng cấp hoặc duy
tu bảo dưỡng lớp mặt đường mềm trong những năm vừa qua.
Tại Việt Nam, việc sử dụng loại nhựa đường có độ kim
lún 60/70 đã trở nên khá quen thuộc trong quá trình xây mới, nâng cấp hoặc duy
tu bảo dưỡng lớp mặt đường mềm trong những năm vừa qua.
Tuy nhiên, đối với mặt đường cao tốc, do những yêu cầu
đặc biệt để đảm bảo an toàn khi phương tiện lưu hành với tốc độ cao, việc sử dụng
các loại vật liệu nhựa đường phù hợp để chế tạo các loại bê tông nhựa phủ có độ
nhám lớn, độ bền cao là hết sức cần thiết.
Trên thế giới, trong nhiều năm qua các nhà nghiên cứu
và sản xuất các loại nhựa đường đã dựa trên các tiêu chí của lớp bê tông nhựa để
thiết kế sản phẩm: Tăng độ ma sát mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông khi
phương tiện lưu hành tốc độ cao; Chịu được điều kiện khắc nghiệt của thời tiết
(rất nóng hoặc rất lạnh); Chịu được tải trọng nặng; Không gây hại cho môi trường;
Có khả năng tái sinh và dễ dàng trong việc duy tu bảo dưỡng; Đảm bảo tính kinh
tế với chi phí đầu tư ở mức chấp nhận được.
Qua hàng chục năm nghiên cứu, ứng dụng và cải tiến,
vật liệu nhựa đường polime được sản xuất bằng cách phối trộn nhựa đường với
polime dẻo nhiệt đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới với sản lượng
hàng triệu tấn/ năm.
Các loại bê tông nhựa sử dụng vật liệu nhựa đường cải
thiện bằng polime này có thể đạt được những chỉ tiêu cơ lý hết sức quan trọng
như không bị chảy mềm ở nhiệt độ cao (lên tới 900C), không bị nứt vỡ khi nhiệt
độ thấp (tới - 400C), không tạo ra các vệt lún do mỏi hoặc nứt vỡ do tải trọng
nặng… và đặc biệt là tăng độ nhám mặt đường và vòng đời cao hơn gấp nhiều lần.
Đối với các công trình đường cao tốc, thông thường
người ta sử dụng loại vật liệu nhựa đường polime để chế tạo hỗn hợp bê tông nhựa
cấp phối gián đoạn, với độ rỗng lớn (từ 12 % trở lên), có độ chịu mài mòn cao để
tạo ra lớp phủ bê tông nhựa có độ ma sát lớn.
Chi phí đầu tư ban đầu của lớp tạo nhám thường cao
hơn lớp phủ bằng bê tông nhựa thông thường, nhưng như đã nói ở trên, chi phí cả
vòng đời của nó lại thấp hơn và chất lượng tạo nhám lại tốt hơn gấp bội. Hơn nữa,
với những thiết bị máy móc sẵn có trong nước hiện nay là có thể tổ chức thi
công rộng rãi lớp tạo nhám cao này, mà không cần phải đầu tư mua sắm thêm.
Tại Việt Nam, việc áp dụng thử nghiệm lớp mặt đường
có độ nhám cao sử dụng nhựa đường cải thiện bằng polime đã được bắt đầu từ năm
1997 (đường Bắc Thăng Long - Nội bài, QL 51, QL 1 đoạn Pháp Vân - Cầu Giẽ…) và
đã cho kết quả rất tốt.
Qua quá trình thử nghiệm và đánh giá, vật liệu nhựa
đường polime đã được tiêu chuẩn hóa theo “Tiêu chuẩn vật liệu nhựa đường polime
(22TCN319-04) và “Quy trình Công nghệ thi công và nghiệm thu lớp phủ mỏng bê
tông nhựa có độ nhám cao (22TCN345-06)”. Đây là những văn bản pháp lý giúp cho
các nhà tư vấn thiết kế, các chủ đầu tư, các nhà thầu thi công có thể áp dụng
có kết quả lớp phủ tạo nhám trên các quốc lộ quan trọng và đường cao tốc.
Các nhà máy chế tạo nhựa bitum cải thiện bằng polime
cũng đã được xây dựng và đưa vào sản xuất (ở Cửa Lò, Gò Dầu…), có thể sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu sắp tới trong xây dựng đường cao tốc ở nước ta.
Hy vọng rằng trên những quốc lộ quan trọng và mạng
lưới đường cao tốc sắp xây dựng sẽ sử dụng rộng rãi và có hiệu quả lớp phủ tạo
nhám bằng bê tông nhựa polime để góp phần nâng cao chất lượng của đường và nhất
là để bảo đảm an toàn giao thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét