Phân
biệt các lớp Prime Coat, Tack Coat, và Seal Coat theo AASHTO để có những hiểu
biết chuẩn xác nhất khi tham gia các dự án quốc tế.
Prime
Coat (lớp nhựa thấm bám)
Lớp
Prime coat là lớp nhũ tương bitum (bitumen emulsion) có độ nhớt thấp thường
được phủ lên các lớp móng dạng hạt (như lớp cấp phối đá dăm). Lớp này là lớp
chuẩn bị để trải lớp bê tông nhựa lên mặt móng dạng hạt.
Lớp
nhũ tương Prime coat phải thâm nhập được nhanh vài centimét vào lớp móng dạng
hạt (hình a). Nếu độ nhớt của nhũ tương lớn hoặc sử dụng loại nhũ tương không
đạt yêu cầu làm cho nhũ tương không thể thâm nhập vào đá thì xem như lớp Prime
coat không đạt yêu cầu (hình b).
Chức
năng của lớp prime coat:
·
Làm lớp áo và lớp bám dính cho mặt lớp móng dạng hạt.
· Làm cứng và ổn định bề mặt lớp móng.
· Chống thấm bề mặt móng nhờ lớp nhũ tương thâm nhập len lõi vào các lỗ rỗng của lớp đá.
· Làm tăng mức độ dính bám giữa lớp móng và lớp mặt bê tông nhựa.
· Làm cứng và ổn định bề mặt lớp móng.
· Chống thấm bề mặt móng nhờ lớp nhũ tương thâm nhập len lõi vào các lỗ rỗng của lớp đá.
· Làm tăng mức độ dính bám giữa lớp móng và lớp mặt bê tông nhựa.
Tuỳ
theo loại móng và trạng thái mà lượng nhựa lớp prime coat thay đổi từ:
0.8-1.3l/m2. Dùng nhựa lỏng tốc độ đông đặc nhanh hoặc đông đặc vừa (RC-70;
MC-70) hoặc dùng nhũ tương cationic phân tích chậm (Cationic Slow Setting
Emulsion) loại CSS-1, hoặc nhũ tương anionic phân tích chậm loại SS-1.
Hoặc có thể dùng nhựa đặc 60/70 pha với dầu hoả theo tỷ lệ dầu hoả trên nhựa đặc là 80/100 (theo trọng lượng) tới ở nhiệt độ nhựa 450C ± 100C. Phải tưới trước độ 4-6h để nhựa lỏng đông đặc lại, hoặc nhũ tương phân tích xong mới được rải lớp bê tông nhựa lên trên. (theo tiêu chuẩn Việt Nam 22 TCN 249-98, điều 5.4.4)
Theo hướng dẫn của AASHTO - Guide Specification for Highway Construction, lớp prime coat được trải ở thời tiết khô trên 10oC, lượng nhựa từ 0.45-2.25 l/m2
Hoặc có thể dùng nhựa đặc 60/70 pha với dầu hoả theo tỷ lệ dầu hoả trên nhựa đặc là 80/100 (theo trọng lượng) tới ở nhiệt độ nhựa 450C ± 100C. Phải tưới trước độ 4-6h để nhựa lỏng đông đặc lại, hoặc nhũ tương phân tích xong mới được rải lớp bê tông nhựa lên trên. (theo tiêu chuẩn Việt Nam 22 TCN 249-98, điều 5.4.4)
Theo hướng dẫn của AASHTO - Guide Specification for Highway Construction, lớp prime coat được trải ở thời tiết khô trên 10oC, lượng nhựa từ 0.45-2.25 l/m2
Tack
Coat là lớp phun mỏng nhũ tương bê tông nhựa loãng để tạo ra lớp dính bám giữa
lớp bê tông nhựa với mặt đường hiện hữu hoặc giữa các lớp bê tông nhựa với
nhau.
Chức
năng của lớp Tack Coat:
· Tăng cường bám dính giữa các lớp
· Tránh hiện tượng trượt giữa hai lớp vật liệu
· Tăng cường độ của hai lớp vật liệu nhờ sự kết hợp làm việc đồng thời
· Tăng cường bám dính giữa các lớp
· Tránh hiện tượng trượt giữa hai lớp vật liệu
· Tăng cường độ của hai lớp vật liệu nhờ sự kết hợp làm việc đồng thời
Lớp
Tack coat thường áp dụng trên các lớp móng có dùng nhựa (thấm nhập nhựa, láng
nhựa...) vừa mới thi công xong hoặc trên lớp bê tông nhựa thứ nhất vừa mới rải
xong, sạch và khô ráo thì chỉ cần tưới lượng nhựa lỏng RC-70 hoặc MC-250 hoặc
nhũ tương CSS-1h hoặc SS-1h từ 0.2-0.5l/m2; hoặc nhựa đặc 60/70 pha dầu hoả
theo tỷ lệ dầu hoả trên nhựa đặc là 25/100 (theo trọng lượng) tưới ở nhiệt độ
nhựa 1100C ±100C. (theo tiêu chuẩn Việt Nam 22 TCN 249-98, điều 5.4.4)
Theo
hướng dẫn của AASHTO - Guide Specification for Highway Construction, lớp tack
coat được trải ở thời tiết khô hoặc ấm, trước hoàng hôn, bề mặt trải phải khô
ráo, lượng nhựa từ 0.15-0.7 l/m2.
ỷ lệ dầu hoả trên
nhựa đặc là 25/100 (theo trọng lượng) tưới ở nhiệt độ nhựa 1100C ±100C. (theo
tiêu chuẩn Việt Nam 22 TCN 249-98, điều 5.4.4)
Theo hướng dẫn của AASHTO -
Guide Specification for Highway Construction, lớp tack coat được trải ở thời
tiết khô hoặc ấm, trước hoàng hôn, bề mặt trải phải khô ráo, lượng nhựa từ
0.15-0.7 l/m2.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét